Ruồi nhà có tên khoa học Musca domestica, rất gần gũi trong đời sống hàng ngày của con người.
Ruồi đã có mặt khắp nơi trên thế giới theo sự di dân của người và là một trong những sinh vật gây phiền hà cho sinh hoạt cũng như đóng vai trò trung gian lây truyền các bệnh đường tiêu hóa cho loài người.
Ruồi mối phiền hà, khó chịu
Ruồi xuất hiện luôn gây cảm giác khó chịu, sự hiện diện của ruồi là dấu hiệu của điều kiện mất vệ sinh. Ấn tượng về những con ruồi từ những bãi rác, bãi phân… mang theo chất bẩn thỉu trên chân, thân, vòi… đậu vào bàn ghế, vật dụng, thức ăn, nhà cửa thậm chí trên cơ thể đã gây một cảm giác khó chịu thực sự.
TP. HCM đã từng ghi nhận rất nhiều phản ánh về sự phiền hà của cộng đồng dân cư sống gần các bãi xử lý rác do sự xuất hiện ruồi dày đặc như dịch ruồi gần bãi rác Đông Thạnh năm 2007, dịch ruồi gần bãi rác Đông Thạnh năm 2009, nạn ruồi bãi rác Nam Sơn 2017.... Mật độ ruồi ở những nơi này giảm hẳn khi rác được thu gom và xử lý đúng kỹ thuật.
Ruồi lây truyền nhiều bệnh nguy hiểm
Ruồi là trung gian truyền cơ học nhiều mầm bệnh vi sinh vật từ những nơi ô nhiễm đến người và các thức ăn của người.
Cơ chế lây truyền bệnh sang người của ruồi
Thức ăn của ruồi rất đa dạng từ thức ăn, rác rưởi đến phân của người và động vật. Do cấu tạo của phần phụ miệng của ruồi ở dạng hút dẫn nên thức ăn của chúng phải ở dạng lỏng. Để kiếm ăn, ruồi bay từ những chất hữu cơ có trong rác, đất giàu chất hữu cơ, chất thải của người và động vật đến đồ ăn thức uống của người mang theo một lượng lớn vi sinh vật gây bệnh bám dính trên thân, chân, cánh.
Khi mầm bệnh dính vào mặt ngoài của ruồi, mầm bệnh chỉ tồn tại khoảng vài giờ nhưng khi được nuốt vào trong ruột thì chúng có thể sống sót đến vài ngày.
Đa số các mầm bệnh do ruồi truyền đều nhiễm trực tiếp qua đường thức ăn, nước uống, không khí, tay và sự tiếp xúc giữa người và người. Những bệnh do ruồi truyền là các bệnh truyền nhiễm đường ruột (như kiết lỵ, tiêu chảy, thương hàn, tả và một số bệnh giun sán), nhiễm trùng mắt (mắt hột …) và một số bệnh ngoài da (như bệnh mụn cóc, bệnh ngoài da cấp tính, nấm…).
Ruồi phát triển mạnh và nhanh
Vòng đời của ruồi trải qua 4 giai đoạn: trứng – giòi – nhộng – ruồi trưởng thành.
Ruồi cái đẻ trứng vào chất hữu cơ thối rữa, lên men hoặc mục nát có nguồn gốc động vật hay thực vật như phân động vật, rác chế biến thực phẩm, phân bón hũu cơ, bùn cống, cây cối chất đống trên đường. Khác với ruồi thối và nhặng, ruồi nhà không đẻ trứng trên thịt hoặc xác chết. Sau đẻ vài giờ, trứng sẽ nở ra dòi, dòi cần thở ôxy trong không khí vì vậy chúng chỉ sống ở nơi có đủ khí ôxy. Đây là một đặc điểm khá quan trọng trong kiểm soát sự phát triển của loài ruồi. Thời gian phát triển từ trứng đến ruồi trưởng thành có thể từ 6 – 42 ngày tùy thuộc nhiệt độ môi trường cao hay thấp. Ruồi nhà trưởng thành có thể sống từ 2 – 3 tuần; tuy nhiên nếu điều kiện mát mẻ, chúng có thể sống lâu đến 3 tháng.
Ruồi cái có thể sinh sản rất sớm, chỉ vài ngày sau khi nở. Trung bình một con ruồi cái có thể đẻ khoảng 5 lần trong cuộc đời, mỗi lần khoảng 120 – 130 trứng. Với khả năng sản xuất trứng nhiều và vòng đời ngắn như vậy, ruồi nhà được xem ẩn họa nguy hiểm con người, bạn dịch ruồi có thể phát triển trong vài tuần.
Trong khi giai đoạn trước trưởng thành của loài ruồi nhà gắn liền với các chất thải hữu cơ bên ngoài nhà thì ruồi nhà trưởng thành lại gắn với những nơi sinh hoạt của con người. Ruồi trưởng thành hoạt động chủ yếu vào ban ngày khi chúng ăn và giao phối. Có thể tìm thấy ruồi tại các điểm trú đậu như sàn nhà, tường, thùng rác, dây phơi quần áo, thảm cỏ, thảm cây. Ban đêm, ruồi không hoạt động, chúng thường đậu phía ngoài nhà như tường rào, dây phơi, dây điện trần… Nhìn chung ruồi thường đậu ở nơi tránh được gió, gần với nơi đẻ và nơi kiếm ăn của chúng. Nhiệt độ và độ ẩm môi trường cũng ảnh hưởng đến sự lựa chọn nơi đậu nghỉ và hoạt động của ruồi. Chúng ưa thích những nơi có độ ẩm không khí thấp, nhiệt độ từ 35 – 40 độ C.
Vệ sinh môi trường là những biện pháp nhằm giải quyết tận gốc sự xuất hiện của ruồi cũng như sự tiếp xúc của nó với nguồn ô nhiễm và với con người.